Dịch vụ ngân hàng là một giải pháp cơ bản giúp các ngân hàng thương mại tiếp cận đến gần với hơn đông đảo khách hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Vì vậy, phát triển dịch vụ ngân hàng là vấn đề hàng đầu được các ngân hàng thương mại quan tâm hiện nay. Để hiểu rõ hơn về nội dung khái niệm dịch vụ ngân hàng là gì? Các nhóm dịch vụ ngân hàng của ngân hàng thương mại, hãy cùng Luận Văn 2S theo dõi bài viết dưới đây.
Dịch vụ ngân hàng là gì?
Để hiểu rõ bản chất khái niệm dịch vụ ngân hàng là gì, trước tiên, chúng ta cần phải hiểu thế nào là dịch vụ?
Dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thức vật thể (vô hình), không có sự chuyển giao quyền sở hữu khi một tổ chức cung cấp dịch vụ cho khách hàng nhằm thỏa mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu quả các nhu cầu của sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. Trong thực tế, nhu cầu của con người đang ngày càng trở nên đa dạng kéo theo đó là sự ra đời của nhiều loại hình dịch vụ khác nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu đó. Dịch vụ ngân hàng cũng không ngoại lệ, nó là một bộ phận cấu thành của dịch vụ tài chính.
Theo quy định chung của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ GATS của WTO, dịch vụ ngân hàng đến nay vẫn không có khái niệm nhất quán mà được coi như một loại hình dịch vụ tài chính. Cũng theo Hiệp định này, dịch vụ tài chính được hiểu là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính. Kể đến như các dịch vụ ngân hàng, các dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm và các dịch vụ tài chính khác.
Trước xu thế hội nhập quốc tế ngày càng trở nên sâu rộng như hiện nay thì quan niệm về dịch vụ ngân hàng đã được đổi mới phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo đó, khái niệm dịch vụ ngân hàng có thể được hiểu theo nghĩa chung nhất đó là tất cả các hoạt động tiền tệ, thanh toán, tín dụng, ngoại hối… mà ngân hàng thương mại cung ứng cho nền kinh tế nhằm đáp ứng các nhu cầu của khách hàng và đem lại nguồn thu phí cho chính các ngân hàng thương mại cung ứng dịch vụ.
Khái niệm dịch vụ ngân hàng là gì?
Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng là gì?
Dịch vụ ngân hàng mang tính vô hình
Dịch vụ của ngân hàng không tồn tại dưới dạng vật chất nên khách hàng khi mua dịch vụ không thể sờ nắm được. Để tăng sự tin tưởng của khách hàng khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thì ngân hàng cần thực hiện nhiều biện pháp tác động tới khách hàng để họ tin rằng họ sẽ thu được nhiều lợi ích khi sử dụng dịch vụ. Để làm được điều này, hoạt động marketing là vô cùng quan trọng tác động chính vào khách hàng, đi sâu vào tâm lý của họ và hướng tới khách hàng.
Dịch vụ ngân hàng không thể tách rời
Trên thực tế, quá trình cung ứng dịch vụ ngân hàng luôn diễn ra đồng thời với quá trình tiêu dùng của khách hàng, họ cũng có mặt khi dịch vụ được thực hiện nên sự tác động qua lại giữa người cung ứng dịch vụ và khách hàng mang tính chất đặc biệt của marketing dịch vụ. Cả nhân viên ngân hàng và khách hàng đều tác động và ảnh hưởng đến kết quả dịch vụ. Vì thế, các giải pháp marketing không chỉ hướng vào nhân viên ngân hàng mà còn phải nhanh gọn, chính xác với thái độ thiện cảm, thân thiện với khách hàng và phối hợp chặt chẽ với khách hàng hoàn tất quá trình cung ứng dịch vụ.
Dịch vụ ngân hàng không lưu trữ được
Dịch vụ ngân hàng không thể sản xuất rồi lưu kho như các sản phẩm thông thường khác nên ngân hàng cần hướng vào việc điều chỉnh nhịp độ cung ứng theo nhịp độ mua bán, rút ngắn quá trình xử lý nghiệp vụ và tăng cường nhân viên cung ứng tại giờ cao điểm.
Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng
Các nhóm dịch vụ ngân hàng của NHTM
Cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế – xã hội, đời sống và nhu cầu của mọi người ngày càng trở nên đa dạng hơn, chính vì thế, dịch vụ ngân hàng cũng ngày càng được phát triển, đổi mới để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng. Chính vì vậy, khó có thể thống kê toàn bộ các loại dịch vụ ngân hàng có trong NHTM. Dựa trên đặc điểm, chiến lược kinh doanh của từng ngân hàng, về cơ bản dịch vụ ngân hàng của NHTM được chia thành 05 nhóm dịch vụ. Cụ thể như sau:
#1 Nhóm dịch vụ huy động vốn
Dịch vụ huy động vốn (dịch vụ nhận tiền gửi) là hoạt động truyền thống cơ bản và quan trọng nhất của mọi NHTM. Điều này được thể hiện ở chỗ tiền gửi không chỉ mang lại nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của các NHTM mà nó còn là là tiền nhàn rỗi của xã hội được các ngân hàng huy động và tập trung nhằm mục đích sử dụng cho các yêu cầu của nền kinh tế – xã hội một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động còn là cơ sở cho các hoạt động khác trong các NHTM, chẳng hạn như cung cấp tín dụng hay cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác cho khách hàng. Để thu hút được nguồn tiền gửi trong xã hội, các dịch vụ huy động vốn được NHTM cung ứng kể đến như:
Tiền gửi thanh toán:
Là tài khoản tiền gửi thanh toán (thường là tài khoản tiền tiền gửi thanh toán không kỳ hạn) do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại ngân hàng với mục đích chủ yếu là thực hiện các giao dịch thanh toán qua Ngân hàng bằng các phương tiện thanh toán như: ủy nhiệm thu – chi, séc lĩnh tiền mặt… Tùy theo mục đích của từng đối tượng khách hàng, tài khoản tiền gửi thanh toán có thể được mở theo các hình thức là tài khoản tiền gửi của cá nhân, tài khoản tiền gửi của tổ chức hoặc tài khoản tiền gửi của các đồng chủ tài khoản.
Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm nhằm mục đích được hưởng lãi suất tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm được xác nhận trên sổ tiết kiệm và được hưởng lãi theo quy định của NHTM nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. Tiền gửi tiết kiệm được chia thành 02 loại là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (người gửi có thể gửi – rút tiền trong tài khoản tiết kiệm bất cứ lúc nào) và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (người gửi chỉ được phép rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định đã thỏa thuận, hoặc chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn nếu rút gốc trước hạn).
Phát hành giấy tờ có giá trị
Giấy tờ có giá trị là chứng nhận của NHTM phát hành nhằm mục đích huy động vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa các NHTM phát hành và người mua. Giấy tờ có giá trị hiện nay bao gồm các loại như sau: trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi…
#2 Nhóm dịch vụ tín dụng
Như đã đề cập ở trên, nhóm dịch vụ huy động vốn có chức năng huy động tiền gửi cho các dịch vụ ngân hàng khác, trong số đó phải kể đến là dịch vụ tín dụng. Nguồn vốn huy động được được NHTM sử dụng cho việc cung cấp tín dụng cho các cá nhân, tổ chức thông qua các hình thức như: cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác… Dịch vụ tín dụng có thể được phân thành nhiều loại dựa trên các tiêu chí phân loại khác nhau như: thời hạn tín dụng, mục đích của tín dụng, mức độ tín nhiệm của khách hàng, phân loại khách hàng và phương thức cho vay. Cụ thể:
- Dựa vào thời hạn tín dụng: Cho vay ngắn hạn; cho vay trung hạn và cho vay dài hạn
- Dựa vào mục đích của tín dụng: Cho vay tiêu dùng; cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh; cho vay bất động sản và cho vay sản xuất nông nghiệp.
- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: Cho vay có bảo đảm và cho vay không bảo đảm.
- Dựa vào phương thức cho vay: Cho vay theo món; cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay theo hạn mức thấu chi.
- Dựa vào phân loại khách hàng: Cho vay cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác; cho vay doanh nghiệp
Ngoài ra, vẫn còn một số sản phẩm tín dụng khác như: Tín dụng liên kết; bảo lãnh ngân hàng; cho thuê tài chính…
#3 Nhóm dịch vụ thanh toán
Dịch vụ thanh toán qua ngân hàng là việc thông qua hệ thống ngân hàng, khách hàng thực hiện việc chi trả các khoản tiền hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác giữa các tác nhân trong nước và quốc tế. Đây là một trong những nhóm dịch vụ quan trọng của NHTM bởi nó giúp cho các ngân hàng tiếp cận được với khách hàng, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, việc thanh toán không dùng tiền mặt đang được xã hội tin dùng.
Dựa theo đối tượng thanh toán, ta có thể chia nhóm dịch vụ thanh toán thành 02 loại: dịch vụ thanh toán trong nước và dịch vụ thanh toán quốc tế.
Dịch vụ thanh toán trong nước:
Là các dịch vụ thanh toán qua hệ thống ngân hàng được thực hiện và tiến hành thông qua phương thức trích chuyển từ tài khoản đơn vị này sang tài khoản đơn vị khác hoặc bù trừ lẫn nhau giữa các đơn vị tham gia thanh toán. Ngân hàng đóng vai trò là người cung ứng dịch vụ thanh toán. Các phương thức thanh toán trong nước phổ biến là: Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, séc, thanh toán bằng thẻ ngân hàng, thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, chuyển khoản thanh toán tự động định kỳ, thanh toán lương qua tài khoản…
Dịch vụ thanh toán quốc tế:
Cùng với sự phát triển không ngừng của quan hệ kinh tế quốc tế, là sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động giao thương quốc tế và kéo theo hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng phát triển. Trong thanh toán quốc tế, bên mua và bên bán không sử dụng tiền mặt để thanh toán trực tiếp mà họ nhờ đến các NHTM làm trung gian thanh toán cho họ. Các phương thức thường được NHTM sử dụng trong thanh toán quốc tế là: phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ, phương thức chuyển tiền.
#4 Nhóm dịch vụ kinh doanh ngoại tệ
Các phương thức chủ yếu của giao dịch kinh doanh ngoại tệ bao gồm:
Dịch vụ mua bán ngoại tệ giao ngay:
Là hoạt động mua bán ngoại tệ giao ngay với tỷ giá được xác định tại thời điểm ký hợp đồng. Thông thường trong nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay, thời gian cần thiết để các bên mua bán hoàn tất việc chuyển tiền và thanh toán chậm nhất là sau hai ngày làm việc.
Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn:
Là hoạt động mua bán ngoại tệ mà mọi điều kiện về mua bán ngoại tệ được xác định tại thời điểm ký hợp đồng, nhưng sẽ được thực hiện theo một thời gian nhất định trong tương lai ( (từ 1 – 12 tháng) theo tỷ giá thỏa thuận trước trong hợp đồng. Tỷ giá có kỳ hạn được xác định trên cơ sở tỷ giá giao ngay, thời hạn giao dịch và lãi suất của hai đồng tiền. Nghiệp vụ kỳ hạn vừa cho phép đáp ứng nhu cầu ngoại tệ trong tương lai một cách chắc chắn vừa là một trong những biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro về tỷ giá.
Dịch vụ quyền chọn ngoại tệ:
Là hoạt động ngân hàng sẽ ký hợp đồng quyền chọn với khách hàng của mình về việc mua hoặc bán ngoại tệ theo một số lượng, tỷ giá và thời hạn nhất định, nhưng giành quyền chọn cho khách hàng. Nghĩa là dành cho ngân hàng quyền quyết định (quyền chọn) là có thực hiện hay không thực hiện hợp đồng mua bán ngoại tệ đã ký. Dịch vụ quyền chọn ngoại tệ được chia làm 02 loại là quyền chọn bán (khách hàng sẽ ký hợp đồng bán ngoại tệ với
ngân hàng) và quyền chọn mua (khách hàng sẽ ký hợp đồng mua ngoại tệ với ngân hàng).
Dịch vụ giao dịch tương lai
Là giao dịch mua hoặc bán số lượng ngoại tệ với tỷ giá được xác định do hai bên tự thỏa thuận. Thông qua sở giao dịch hối đoái, việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày xác định trong tương lai.
Dịch vụ hoán đổi
Là giao dịch đồng thời mua và bán cùng một loại ngoại tệ. Trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch là khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định ngay tại thời điểm ký hợp đồng.
#5 Nhóm dịch vụ thẻ
Thẻ ngân hàng là một trong những phương thức thanh toán tiên tiến, hiện đại. Chủ sở hữu thẻ có thể sử dụng thẻ trong việc thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ không dùng tiền mặt hoặc dùng để rút tiền mặt tại các máy trả tiền tự động (ATM). Dịch vụ thẻ có thể được phân thành nhiều loại dựa theo các tiêu thức phân loại khác nhau. Cụ thể như:
- Dựa theo vùng phạm vi sử dụng thẻ ngân hàng: Thẻ nội địa và thẻ quốc tế
- Dựa theo tính chất sử dụng thẻ ngân hàng: Thẻ thanh toán (ATM) và thẻ tín dụng (Credit card)
Nhóm dịch vụ thẻ
#6 Nhóm dịch vụ ngân hàng điện tử
Còn được gọi là dịch vụ ngân hàng hiện đại bao gồm các dịch vụ được các ngân hàng cung cấp dựa trên nền tảng công nghệ tin học hiện đại. Nhóm dịch vụ ngân hàng này hiện rất được khách hàng sử dụng bởi tính tiện lợi mà nó mang lại như dịch vụ ngân hàng điện tử cho phép khách hàng truy cập từ xa, thực hiện các giao dịch với ngân hàng thông qua phương tiện thông tin hiện đại mà không cần phải đến quầy giao dịch truyền thống. Các loại dịch vụ ngân hàng điện tử phổ biến bao gồm:
Internet banking
Đây là một phương thức giúp cho khách hàng chuyển tiền trên mạng thông qua các tài khoản và đồng thời là kiểm soát hoạt động của các tài khoản này. Để tham gia khách hàng truy cập vào website hoặc app của ngân hàng và thực hiện giao dịch tài chính, truy cập thông tin cần thiết.
Mobile banking
Là phương thức thanh toán trực tiếp qua mạng điện thoại di động song hành với hình thức thanh toán qua mạng Internet. Sự ra đời của phương thức Mobile banking là nhằm mục đích giải quyết nhu cầu thanh toán những dịch vụ tự động không có người phục vụ hoặc những giao dịch có giá trị nhỏ . Hầu hết, mọi khách hàng đều có thể dễ dàng tham gia dịch vụ này bằng cách hoàn thành thủ tục cần thiết tham gia dịch vụ tại quầy hoặc đăng ký online qua website của ngân hàng.
Ví điện tử
Ví điện tử là một ví tiền trên điện thoại di động dùng để thay thế tiền mặt và thực hiện các giao dịch như: nạp tiền điện thoại, thanh toán hoá đơn ADSL, mua hàng trực tuyến di động.
Dịch vụ ngân hàng trực tuyến
Khách hàng có thể mở tài khoản ở một nơi nhưng thực hiện giao dịch ở bất kỳ chi nhánh thuộc hệ thống NHTM trên toàn quốc. Với những tiện ích đó được khai thác áp dụng cho toàn bộ sản phẩm chuyển tiền, tiền gửi, tiền vay, đầu tư. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến là tiền đề cho sự phát triển các dịch vụ hiện đại khác như dịch vụ thẻ…
Mục đích của việc phát triển dịch vụ ngân hàng là gì?
Phát triển dịch vụ ngân hàng giúp nâng cao khả năng cạnh tranh vì chỉ có ngân hàng có nhiều tiện ích mới có thể thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Những ngân hàng nào có thể mạnh về dịch vụ mới có thể đứng vững trên thị trường. Việc phát triển dịch vụ nhằm mục đích phát triển một lượng lớn tài chính, tăng doanh thu.
Việc xác định mục đích phát triển dịch vụ giúp cho hoạt động của ngân hàng trở nên sôi động hơn, tạo ra một môi trường kinh doanh ở trình độ cao.
Việc phát triển dịch vụ ngân hàng cần làm tốt công tác khách hàng, lấy khách hàng làm “cuộc sống” của ngân hàng. Từ đó mới có thể cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng và việc đóng góp của các ngân hàng làm tăng tiềm lực tài chính quốc gia cho nền kinh tế.
Đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng bằng cách áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại sẽ tiết kiệm chi phí trên sản phẩm và các sản phẩm đơn lẻ được liên kết thành “dịch vụ ngân hàng” thắt chặt quan hệ lợi ích giữa khách hàng và ngân hàng. Ví dụ, với dịch vụ giao dịch địa ốc ngân hàng có thể cung cấp thêm các dịch vụ khác như tư vấn thủ tục, thanh toán qua ngân hàng,…
Ý nghĩa của việc phát triển dịch vụ ngân hàng là gì?
Dịch vụ ngân hàng là một tín hiệu thể hiện trình độ phát triển của một quốc gia. Do đó, dịch vụ ngân hàng không những đóng góp cho xã hội và nền kinh tế, cụ thể như sau:
Đối với nền kinh tế và khách hàng
Thông qua hoạt động của dịch vụ tài chính, ngân hàng thực hiện quá trình chu chuyển tiền tệ cho nền kinh tế, khai thác và sử dụng các nguồn vốn chu chuyển tiền tệ cho nền kinh tế và luân chuyển tiền tệ. Từ đó, các khối tiền bất động trở thành sống động hơn, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế xã hội, kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển thông qua dịch vụ đầu tư, ngoại hối,…góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa nền kinh tế đất nước, chuyển giao công nghệ và kích thích sản xuất kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động dịch vụ ngân hàng đã tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành trôi chảy nhịp nhàng thúc đẩy đồng vốn luân chuyển nhanh chóng, đẩy nhanh tốc độ sản xuất và luân chuyển hàng hóa. Dịch vụ tài chính của ngân hàng cũng góp phần tích cực trong việc mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, cho khách hàng và cho cả ngân hàng thông qua việc giảm chi phí nhờ tiện ích và chuyên môn hóa của từng dịch vụ. Thông qua đó, khách hàng có cơ hội lựa chọn sản phẩm dịch vụ có lợi và hiệu quả nhất.
Đối với các ngân hàng
Hoạt động dịch vụ tài chính mang lại cho ngân hàng một khoản thu nhập lớn từ phí dịch vụ và hoa hồng. Phát triển dịch vụ ngân hàng đa dạng hóa tiện ích theo hướng cải tiến công tác thanh toán, đơn giản hóa thủ tục và mở rộng mạng lưới hoạt động. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể phát triển các dịch vụ hỗ trợ như dịch vụ trả lương, dịch vụ chuyển tiền mặt,… thu hút nhiều khách hàng thanh toán qua ngân hàng từ đó tăng trưởng nguồn thu dịch vụ của ngân hàng.
Sự phát triển của dịch vụ ngân hàng trong lĩnh vực tài chính công ty đặc biệt là cung ứng dịch vụ tư vấn và phân tích tài chính phục vụ hoạt động của ngân hàng mở ra khả năng để tăng lợi nhuận cho các tổ chức ngân hàng và mở rộng thêm đội ngũ khách hàng.Từ đó, ngân hàng có thể chuyển các rủi ro của người đi vay từ bảng cân đối của các ngân hàng sang các tổ chức đầu tư, tăng vốn tư bản và thực thi các chiến lược phát triển của các công ty.
Việc cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực tài chính mang lại khoản lợi nhuận khổng lồ mà còn tạo ra các lợi thế quan trọng để đảm bảo nâng cao hiệu quả và độ an toàn cho hoạt động dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng cần thực hiện đầy đủ ba nghĩa vụ:
- Thứ nhất, thực hiện nghĩa vụ kinh doanh sao cho đạt được lợi nhuận tối đa. Lợi nhuận là nhiệm vụ sống còn của ngân hàng bởi ngân hàng bắt buộc phải tồn tại và phát triển.
- Thứ hai, nghĩa vụ với thị trường thể hiện ở việc làm tròn bổn phận đối với khách hàng. Ngân hàng phải xác định mục tiêu phục vụ khách hàng, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ hoàn hảo nhất, luôn coi khách hàng là cuộc sống của ngân hàng và tránh các hành vi lừa đảo.
- Thứ ba, thực hiện trách nhiệm với xã hội thông qua việc tạo thêm việc làm cho xã hội, bảo vệ môi trường và đóng góp vào ngân sách quốc gia.
Việc phát triển dịch vụ ngân hàng trong thời buổi mở cửa kinh tế và hội nhập quốc tế là một yêu cầu quan trọng đối với các ngân hàng thương mại hiện nay. Tuy vậy, để đảm bảo tính hiệu quả, mỗi ngân hàng cần tìm cho mình một giải pháp thiết thực, mang tính chiến lược cao. Hy vọng những chia sẻ xoay quanh khái niệm dịch vụ ngân hàng thương mại là gì của chúng tôi sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về loại hình dịch vụ này.